Tính hợp pháp của chứng cứ ghi âm trong tố tụng dân sự
Theo khoản 1 Điều 82 BLTTDS hiện hành, băng ghi âm được coi là một nguồn chứng cứ (tài liệu nghe được). Tuy nhiên, việc xác định nó có phải là chứng cứ hay không thì phải theo quy định tại khoản 2 Điều 83 bộ luật này.
Theo đó, các tài liệu nghe được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm đó.
Từ điều luật hiện hành, trong thực tiễn khi đương sự thu thập tài liệu chứng cứ ghi âm phải biết chuyển hóa tài liệu. Nghiệp vụ chuyển hóa có thể tư vấn từ luật sư, cán bộ điều tra, những người ngành luật khác…
- Nguồn chứng cứ. (Điều 82 – BLTTDS 2015)
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá tài sản;
9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
(Điều kiện được coi là chứng cứ) (Điều 83 – BLTTDS 2015)
– Các tài liệu đọc được nội dung nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Do đó các tài liệu đọc được mà không phải là bản chính hoặc bản sao không được công chứng chứng thực theo quy định của Luật thì tài liệu đó không được công nhận là chứng cứ.
– Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được mà không có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc không có văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó thì tài liệu nghe được, nhìn được đó cũng không phải là chứng cứ. Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
– Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
– Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định;
– Tập quán được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận;
– Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp.
Việc quy định chứng cứ chặt chẽ, rõ ràng như vậy là để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đương sự, bảo đảm cho việc giải quyết của Toà án được đúng đắn khách quan và để khắc phục tình trạng ngụy tạo tài liệu, chứng cứ giả.
Như vậy, pháp luật đã quy định khá rõ về điều kiện để băng ghi âm trở thành chứng cứ. Nếu không đáp ứng được điều kiện nêu trên thì tòa không thể coi băng ghi âm là chứng cứ chứng minh để xác định sự thật khách quan của vụ án mà chỉ coi là tài liệu tham khảo.
Nghĩa vụ chứng minh trong án dân sự thuộc về người có yêu cầu:
Trong thực tiễn xét xử, nếu các bên đương sự đều thừa nhận giọng nói trong băng ghi âm là của mình, thừa nhận nội dung trao đổi trong băng ghi âm là đúng sự thật thì tòa án công nhận là chứng cứ.
Gặp trường hợp một bên đương sự không thừa nhận giọng nói trong băng ghi âm là của mình, không cung cấp mẫu giọng nói để đi giám định, nếu bên cung cấp băng ghi âm xuất trình được văn bản xác nhận xuất xứ của băng ghi âm hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm đó thì tòa vẫn công nhận băng ghi âm là chứng cứ. Tuy nhiên, nếu bên cung cấp băng ghi âm không xuất trình được văn bản xác nhận xuất xứ của băng ghi âm hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm đó thì thông thường các tòa vẫn sẽ xét xử nhưng không công nhận băng ghi âm là chứng cứ mà dựa vào các chứng cứ khác.
Trong vụ việc dân sự nếu đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình thì đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, là hợp pháp. Đương sự tự chịu trách hậu quả về việc không có chứng cứ và chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ.
Chẳng hạn bên cung cấp băng ghi âm cho tòa có nghĩa vụ chứng minh giọng nói trong băng ghi âm là của bên kia, bên kia thì có quyền không cung cấp mẫu giọng nói để giám định vì không có nghĩa vụ phải chứng minh. Luật cũng không có quy định buộc họ phải có nghĩa vụ hợp tác với bên cung cấp băng ghi âm khi họ không muốn. Chỉ khi nào họ có yêu cầu phản tố (ví dụ yêu cầu bên cung cấp băng ghi âm phải xin lỗi vì đã dùng băng ghi âm vu khống…) thì họ mới phải có nghĩa vụ chứng minh rằng giọng nói trong băng ghi âm không phải của mình.