Bình luận bắt người phạm tội quả tang truy nã
Hoạt động bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị, xã hội vì bắt người đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên quan và ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của công dân: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm…của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, vấn đề bắt người quy định trong Tố tụng hình sự luôn đòi hỏi phải đảm bảo tính chặt chẽ, mang lại hiệu quả, để góp phần hoàn thiện pháp luật. Mặc khác, bắt người là biện pháp ngăn chặn cần phải được đánh giá hiệu quả thực tiễn của nó trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm phát huy tác dụng tích cực, khắc phục những hạn chế. Chúng ta cùng nghiên cứu,trường hợp bắt người phạm tội quả tang và bắt truy nã để áp dụng thực tiễn vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các lực lượng tham gia. Đồng thời tuyên truyền pháp luật, vận động quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh tố giác tội phạm có hiệu quả thiết thực.
Bắt người phạm tội quả tang:
Là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh.
Điều 111 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :
* Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đang thực hiện tội phạm là trường hợp phạm tội quả tang thường gặp trong thực tế. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện.
Trong trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm.
Đối với những tội phạm mà hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, không bị gián đoạn như tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tội tràng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ… thì trong suốt thời gian đó bị coi là đang thực hiện tội phạm. Vì vậy, thời điểm nào tội phạm bị phát giác cũng là phạm tội quả tang.
* Trường hợp thứ hai : Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trường hợp kẻ phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện.
Cần lưu ý để bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này phải có chứng cứ chứng minh là kẻ đó vừa gây tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực hiện. Thông thường, các vật chứng (còn gọi là tang vật) mà người phạm tội chưa kịp cất giấu, tẩu tán là những bằng chứng khiến kẻ phạm tội không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình vừa thực hiện xong. Nhưng trong các trường hợp không có vật chứng, sự có mặt của những người làm chứng cũng cho phép được bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này.
* Trường hợp thứ ba: đang bị đuổi bắt.
Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt.
Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp.
Việc bắt người đang bị truy nã
Bắt người đang bị truy nã không nằm trong các trường hợp bắt người phạm tội quả tang, vì hành vi của người đang bị truy nã là hành vi bỏ trốn sau khi đã thực hiện tội phạm. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
Để phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tính mạng, sức khỏe và các lợi ích hợp pháp của công dân, điều 112 BLTTHS năm 2015 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền bắt và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, công dân không được đánh đập, tra tấn người phạm tội và cũng không tự ý giam giữ họ mà phải giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hoặc biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Việc bắt đối với một số đối tượng khác ngoài việc phải tuân thủ các quy định về bắt người nói chung còn phải căn cứ vào một số quy định khác của pháp luật. Ví dụ: Việc bắt người phạm tội là người thuộc các cơ quan dân cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngoài việc tuân theo các quy định ở các điều trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn phải đảm bảo một số thủ tục được quy định trong Hiến pháp và một số đạo luật khác.
Các quy định về thủ tục bắt người đặc biệt này là nhằm bảo đảm hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân với chức năng giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của Bộ máy nhà nước. Mặt khác, các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những người đại diện của dân, do dân bầu ra nên việc bắt, giữ họ phải tuân theo những thủ tục đặc biệt.
Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt quả tang, truy nã:
Cần tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có biện pháp điều tra, khám phá tội phạm. Khi giao, nhận hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trường hợp phạm tội quả tang, truy nã Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ, phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Đối với người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Cơ quan này sau khi nhận được thông báo phải ra ngay quyết định tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhân người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người bị bắt đến giam tại trại tạm giam nơi gần nhất.
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Việc thông báo cho gia đình, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc biết rõ người đó đã bị cơ quan nhà nước bắt, lý do bắt để họ khỏi tổ chức việc đi tìm hay thông báo về việc mất tích hoặc gây lo lắng hoang mang cho gia định và người thân thích của người bị bắt. Trong trường hợp khi thi hành lệnh bắt đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc đã tham gia thì chỉ cần thông báo cho gia đình của người bị bắt biết về việc bắt người.
Nếu xét thấy thông báo cản trở cho việc điều tra thì người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt không phải thông báo ngay cho gia đình, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc biết. Nhưng khi những cản trở cho việc điều tra không còn nữa thì phải thông báo ngay.