Hậu quả pháp lý sống như vợ chồng mà không kết hôn
Thực tế hiện nay, tình trạng nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đang diễn ra trong xã hội ngày càng phổ biến và có xu hướng phát triển phức tạp cả về số lượng cũng như về tính chất của quan hệ.
Chúng ta cùng tìm hiểu : Quyền lợi của các bên trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không được pháp luật thừa nhận. Các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình chung sống, giải quyết hậu quả pháp lý khi phát sinh tranh chấp.
“Trường hợp thực tế: Tham gia tìm kiếm tài liệu, chứng cứ phục vụ tranh kiện phân chia tài sản trường hợp không đăng ký kết hôn( Không công nhận quan hệ vợ chồng).Chị Nguyễn Thu Thảo ông BH Lệu ở phường Long Phước, tx Phước Long. Tòa án nhân dân,Tx Phước Long tỉnh Bình Phước thụ Lý”
Chị Thảo sống như vợ chồng với ông BH Lệu từ năm 2010, do đã lớn tuổi, các con trưởng thành, nên cả hai góp gạo nấu cơm chung, sống như vợ chồng. Quá trình chung sống cả hai cùng góp công sức tạo lập tài sản gồm mua đất xây nhà để ở, xe, đất rẫy( mua bán giấy tay vì chưa được cấp sổ…)
Việc thu thập tài liệu chứng cứ, chứng minh tài sản gây dựng chung, công sức gây dựng là yếu tố then chốt quyết định tỉ lệ phân chia tài sản.
Định hướng giải quyết: Thỏa thuận và hòa giải, căn cứ pháp lý các quy định của pháp luật dân sự, luật đất đai, luật hôn nhân gia đình 2014…
Thu thập tài liệu chứng cứ: Tìm người làm chứng pháp lý, văn bản thỏa thuận, hợp đồng dân sự liên quan, hóa đơn chứng từ (điện, nước, y tế, biên bản quyết định xử phạt vi phạm hành chính…), sao kê tài khoản, giao dịch ngân hàng. Hình ảnh, video thời kỳ sống chung…, lập vi bằng sự kiện hành vi pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đưa ra định nghĩa: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”
-Quyền lợi của các bên khi nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không được pháp luật thừa nhận
Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không được pháp luật thừa nhận hay có thể hiểu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có giá trị pháp lý, bao gồm các trường hợp cụ thể sau:
– Nam, nữ đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn
Trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng, dù hai bên có đủ điều kiện kết hôn (Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các điều kiện kết hôn), nhưng xuất phát từ một vài lý do mà các bên không tiến hành kết hôn, như ở các tỉnh miền núi, do phong tục tập quán, kết hôn chỉ cần sự chứng kiến của già làng nên việc đăng ký kết hôn chưa được người dân quan tâm hoặc với nhiều đôi nam, nữ sống không muốn ràng buộc mà chỉ cần “góp gạo thổi cơm chung” không cần đăng ký kết hôn.
– Nam, nữ không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật
Nam và nữ không đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng chung sống với nhau như vợ chồng (kể từ ngày 03/01/1987 trở về sau) mà không đăng ký kết hôn. Trường hợp này có nghĩa là một trong hai bên hay cả hai bên nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn, nên họ không thể đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với nhau như vợ chồng. Ví dụ, trường hợp hai bên nam và nữ đều đủ 16 tuổi, có tài sản riêng, chung sống với nhau như vợ chồng, thậm chí có quan hệ tình dục với nhau một cách tự nguyện thì hành vi chung sống này cũng không bị xem là vi phạm pháp luật.
– Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính
Về nguyên tắc, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”, tuy nhiên, trên thực tế, pháp luật không cấm những người cùng giới tính được chung sống với nhau. Do đó, việc những người cùng giới tính chung sống với nhau như vợ chồng không bị xem là vi phạm pháp luật.
Những hành vi chung sống như vợ chồng của hai bên hoàn toàn không vi phạm pháp luật. Về hình thức, nam, nữ chung sống như vợ chồng không có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp. Ðiều đó có nghĩa là giữa họ trong quan hệ hôn nhân không có chứng cứ về mặt pháp lý để khẳng định họ là vợ chồng. Vậy, khi họ xin “ly hôn”, quyền lợi của họ sẽ được bảo đảm như thế nào?
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Về nhân thân: Giữa họ không phát sinh quan hệ hôn nhân, theo đó, khi nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì “không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”, điều này đúng với cả trường hợp nam, nữ không đủ điều kiện kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.
Chứng minh qua thủ tục tố tụng: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng”. Tức là quyền và nghĩa vụ vợ chồng của họ theo ý nghĩa pháp lý chưa từng phát sinh, nên Tòa án sẽ không tuyên bố quan hệ đó chấm dứt.
Về tài sản : Cần khẳng định rằng, việc ưu tiên giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của các bên nam, nữ đủ điều kiện kết hôn chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo thỏa thuận giữa các bên là rất hợp lý. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể như sau: “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Thế nhưng, trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lại không đề cập đến trường hợp thỏa thuận vô hiệu, trong khi trường hợp giữa các bên không có thỏa thuận và trường hợp giữa các bên có thỏa thuận nhưng thỏa thuận vô hiệu là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, giữa các bên nam, nữ đủ điều kiện kết hôn chung sống như vợ chồng có thỏa thuận với nhau về quan hệ tài sản, nhưng thỏa thuận đó là giả tạo nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì bị xem là thỏa thuận vô hiệu.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”. Quy định như vậy không chỉ bảo đảm tính nhân văn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con mà sâu xa hơn còn phù hợp với lẽ công bằng, bảo vệ quyền tài sản của các bên liên quan. Thừa nhận công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập là quy định tiến bộ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ trong quá trình chung sống. Tuy nhiên, do tồn tại quy định mang tính tùy nghi “các công việc khác có liên quan” nên nếu không được giải thích rõ ràng và áp dụng thống nhất thì bảo đảm pháp lý này sẽ bị giới hạn trên thực tế.
Về bản chất thì quan hệ chung sống như vợ chồng là sự thỏa thuận của hai bên chung sống, như một quan hệ dân sự. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chung sống giữa họ được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự. Vậy nên, khi có tranh chấp xảy ra giữa họ về tài sản và các quyền, nghĩa vụ thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết thì sẽ hợp lý và phù hợp với thực tế hơn.