Nhận tiền gian dối “chạy việc” có thể bị xử lý hình sự?
Thời gian qua trung tâm điều tra tiếp nhận tư vấn các trường hợp cá nhân giao tiền cho người xin việc, không đòi được tiền, phát sinh tranh chấp. Hầu hết các trường hợp đều không xin được việc, tiền mất, người chạy việc né tránh. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm, mọi người tìm hiểu nội dung phân tích các tình huống pháp lý dưới đây để áp dụng vào thực tế.
Nếu người hứa nhận “chạy việc” là người không có khả năng xin được việc nhưng đã có những hành vi, thủ đoạn để người khác tin tưởng giao tiền thì hành vi này có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Việc đưa ra các thông tin, giấy tờ giả để người xin việc tin tưởng, đưa tiền rồi chiếm đoạt là hành vi vi phạm pháp luật hình sự
Tình huống dân sự:
Hiệu lực giao dịch việc đưa, nhận tiền “chạy việc”
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
☆Giao dịch giữa bên đưa tiền và bên nhận tiền để “chạy việc” là giao dịch được thực hiện hoàn toàn do sự tự nguyện, thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, việc nhận tiền “chạy việc” lại là hành vi trái pháp luật, do đó giao dịch trên bị coi là vô hiệu, vì nội dung và mục đích của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu sẽ được thực hiện theo như Điều 131 Bộ luật Dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Người nhận tiền sẽ phải trả lại số tiền đã nhận
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
Căn cứ vào quy định theo Điều 122 Bộ Luật Dân sự năm 2015 như trên thì giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận khôi phục tình trạng ban đầu.
Trường hợp tình huống vì bên danh nghĩa chạy việc không trả lại tiền, thì bên đưa tiền để xin việc có thể khởi kiện vụ án dân sự (kèm theo chứng cứ chứng mình việc giao nhận…) để đòi lại khoản tiền.
Tùy thuộc vào tình tiết trên thực tế còn có thể xác định hành vi của người nhận tiền để “chạy việc” có cấu thành tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Trường hợp có dấu hiệu của tội phạm bên đưa tiền có thể trình báo với cơ quan công an tố cáo về hành vi chiếm đoạt tài sản để được điều tra và giải quyết.
Tình huống hình sự:
Trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.
☆Trường hợp thực tế người nhận tiền không có khả năng xin được việc mà chỉ đưa ra những thông tin gian dối, giả tạo như hứa hẹn, cam kết, khẳng định… nhằm mục đích để nhận tiền rồi chiếm đoạt thì hành vi đó đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp bên nhận tiền để “chạy việc” không có mục đích ban đầu mà sau khi có được số tiền đó do hoàn cảnh khách quan mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền đó, không trả lại thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.